L-19 BỊ ĐỊA TẶC
Từ trước tới
này chúng ta thường nghe nói về không tặc, là phi cơ bị cướp lúc đang
bay, chứ ít khi nghe nói đến địa tặc, là phi cơ đang đậu dưới đất mà
bị kẻ cướp uy hiếp hoa tiêu và hành khách để bắt buộc thỏa mản yêu
sách của mình. Nhưng tôi là người trong cuộc của câu chuyện dưới
đây. *** Theo Hiệp Định
Genève ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954, Quốc Cộng hai phe sống riêng
biệt, lấy Vỉ Tuyến 17 nơi sông Bến Hải làm ranh giới, Cộng Sản phía
Bắc, Quốc Gia phía Nam. Hai năm sau, lẽ ra có tổng tuyển cử của hai
miền, để chọn một chính phủ cho toàn dân, nhưng sự việc này đã
không xảy ra vì nghi ngờ lẩn nhau, nên hai bên Nam và Bắc đã ra sức
củng cố thể chế của mình về chính trị và tiềm lực quân sự. Nay
không còn hoạt động hành quân thực sự, nhưng chú trọng về huấn
luyện và phòng thủ, bằng cách bành trướng các căn cứ Không Quân,
Hải Quân và Lục Quân, phân chia đóng binh các vùng chiến thuật. Thời gian này các
phi đoàn quan sát hành quân chung với các đơn vị biệt kích, đi tìm
những trọng điểm dọc theo biên giới phía núi, để đóng các tiền đồn,
hầu phòng ngừa sự xâm nhập của địch quân. L-19 thường hay chở các
yếu nhân quan trọng (VIP) thám sát vùng biên giới Lào Việt, phía Bắc
từ Bến Hải vào tới Quảng Nghĩa, qua các tiền đồn Miệt Xá, Khê Sanh,
Liton, A Luoi, A Shau và Thượng Đức. Một hôm Phi Đoàn
1 Quan Sát đóng ở Căn Cứ Không Quân Đà Nẳng nhận được lệnh chở
một yếu nhân từ sân bay Thành Nội Huế đến tiền đồn A Luoi. Tôi tình
nguyện thi hành công tác này. Cất cánh tữ Đà Nẳng ra sân bay Thành
Nội Huế mất đúng 30 phút. Chờ đợi mươi phút thì thấy đoàn xe jeep ba
chiếc tiến vào. Yếu nhân tưởng là ai, thì ra đó là Trung Tá NVC ( sau
này là Thiếu Tướng) đương kim Trung Đoàn Trưởng/ Trung Đoàn Bộ Binh
đóng ở Huế, cũng là Chỉ Huy Trưởng của tôi hồi tôi còn phục vụ
bên Lục Quân. Chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng sau một thời gian
năm năm xa cách, từ khi tôi chuyển sang Không Quân năm 1952. Qua một
vài câu chuyện xã giao, tôi mời Trung Tá NVC bước lên phi cơ. Trung
Tá yêu cầu cho Đại Úy Trưởng Phòng Ba cùng đi theo. Tôi rất sẳn
lòng, nhưng nói thêm * Nếu Trung Tá cho biết trước thì tôi đã đưa đến
đây hai phi cơ, ngồi thoải mái hơn*.Trung Tá NVC đáp * Không hề chi,
ngồi chật một chút cũng được*. Sân bay Thành Nội tương đối dài, L-19
chở 3 người, cất cánh và hạ cánh rất d dàng. Khi hai vị đã ngồi
vào ghế sau phi cơ, tôi phụ giúp buộc dây an toàn, rồi bước vào phi
cơ, nổ máy và cất cánh hướng Tây Bắc, quẹo trái chưa đầy nửa vòng,
lấy hướng A Luoi là nơi phải đến. A Luoi nằm về phía Tây Nam của
thành phố Huế, chỉ bay khoảng 20 phút thì đến nơi. Chúng tôi đáp
xuống an toàn. Khi Trung Tá NVC
bước xuống phi cơ đã được Trung Úy đồn trưởng chờ sẳn đón tiếp theo
lể nghi quân cách nơi tiền tuyến. Thường thường trong những phi vụ
chở các yếu nhân đến tham quan các đơn vị lớn, hoa tiêu chúng tôi
được cấp phương tiện chuyển vận để đi dạo phố hay thăm viếng các
vùng lân cận để mua sắm những đặc sản địa phương. Nhưng A Luoi là một
tiền đồn hẻo lảnh, nằm dọc theo biên giới Lào-Việt, chung quanh bao
bọc bởi rừng già, trong đường bán kính 10 cây số cả hai bên biên
giới không tìm thấy một ngôi nhà nào, ngay cả các làng Thượng (nay
nghe nói vùng này dân cư đông đúc, nhà cửa san sát). Chẳng biết đi
đâu và làm gì cho qua thì giờ, nên tôi đành miển cưởng theo đoàn
thăm viếng vào đồn để nghe Trung Úy đồn trưởng thuyết trình và hướng
dẩn đi quan sát các cộng sự bố phòng. Tuy đây là chuyện chẳng đặng
đừng, nhưng tôi cảm thấy thích thú khi hồi tưởng lại trước kia còn
phục vụ bên Lục quân, tôi thường dẩn quân lính đi tiếp viện những
đơn vị bạn bị địch tấn công, hoặc chính đơn vị tôi cũng đã từng bị địch
vây hảm, khi tôi đóng quân ở các nơi như Kim Long, Huế, Triều Sơn
Tây, Hương Cần hoặc làm đồn trưởng Hạ Lang, Phò Trạch và Mỷ Chánh,
nhưng không có nơi nào hẻo lảnh như đồn A Luoi này. Thời gian thăm
viếng khoảng hai giờ đồng hồ. Chúng tôi sửa soạn ra về vào lúc xế
chiều, nhưng tôi có cảm tưởng như trời sắp tối, vì bầu trời bị che
phủ một vài phần, lại thêm gió rừng thổi vi vu càng làm cho cảnh
trí nơi đây thêm hiu quạnh. Tôi cảm thấy buồn man mác; cùng là chiến
binh như nhau cả, nhưng có người lại được phục vụ tại những đơn vị
đóng ở thị tứ hay vùng an ninh, sống gần gia đình vợ con, làm việc như
công chức, sáng đi tối về, lại có kẻ sống nơi hiu quạnh đèo heo hút
gió, ngày ngày trực diện với sự đe dọa của địch quân. Giá như tôi
không chuyển sang Không Quân, thì có lẻ giờ đây tôi cũng là đồn
trưởng của một nơi cô tịch và thiếu an ninh nào đó. Tôi cho rằng mình
may mắn. Chúng tôi đi bách
bộ từ đồn ra bải đậu phi cơ, vì vị trí đồn nằm cạnh sát sân bay. Trong
lúc Trung Tá NVC và Trung Úy đồn trưởng song hành bên nhau chuyện trò
to nhỏ, tôi bước nhanh lên trước hầu kịp sửa soạn phi cơ trước khi
cất cánh. Nhưng bất ngờ thay, tôi bị khựng lại vì có người ngăn cản
không cho tôi đến gần phi cơ. Nhìn kỷ là một Chuẩn Úy trạc độ trên
hai mươi tuổi, đứng chắn trước cửa phi cơ. Tôi đang lúng túng chưa
biết phải đối xử như thế nào, thì cũng lúc phái đoàn thăm viếng
đến nơi.Nghe tôi trìng bày sự việc, Trung Tá NVC chưa kịp nói gì, thì
Trung Úy đồn trưởng cướp lời * Thưa Trung Tá, chuyện này để tôi giải
quyết, vì Chuẩn Úy NVN là thuộc cấp của tôi.* Nói xong, Trung Úy đồn
trưởng tiến lại phi cơ, nơi Chuẩn Úy NVN đang đứng. Hai người tranh
luận với nhau rất gay gắt. Chuẩn Úy NVN nay không còn đứng chắn
trước cửa phi cơ nữa, nhưng đã xây qua ôm thành sắt chống cánh phi
cơ, còn chân thì để chèn trước bánh xe, có ý ngăn không cho phi cơ di
động. Một lát sau Trung Úy đồn trưởng trở lại trình bày cho Trung Tá
NVC hay rằng Chuẩn Úy NVN muốn được nghỉ phép về Huế thăm vợ con đang
sanh nở và đau yếu. Trung Tá NVC liền hỏi lý lịch, tinh thần phục vụ
và gia cảnh của Chuẩn Úy NVN. Các tin tức này đã được Trung Úy đồn
trưởng tường trình đầy đũ và rõ ràng. Nghe xong, Trung Tá NVC chấp
thuận cho Chuẩn Úy NVN được nghỉ phép, đợi kỳ tiếp tế lần tới,
Chuẩn Úy NVN sẽ theo đoàn xe trở về Huế. Việc tiếp tế cho các tiền
đồn hẻo lánh khoảng ba bốn tháng một lần vì giao thông khó khăn
cách trở. Các xe chở đạn dược, thuốc men, thực phẩm và nhật dụng
thì ít, nhưng các xe công binh mở đường bắt cầu và chở binh sĩ hộ
tống an ninh thì nhiều. Ai cũng tưởng
rằng Chuẩn Úy NVN rất vui lòng với sự chấp thuận cho đi phép của
Trung Tá Trung Đoàn Trưởng. Nhưng không, Chuẩn Úy NVN chỉ muốn được về
Huế hôm nay bằng phi cơ của chúng tôi. Sự đòi hỏi này quá đáng và
ngoan cố nữa, chính tôi cũng cảm thấy bất bình, dĩ nhiên là không
thể thỏa mản được.Trung Úy đồn trưởng và Chuẩn Úy NVN lần này cải
vã to tiếng rồi xô xát. Nhưng làm cách nào cũng không thể bắt buộc
Chuẩn Úy NVN rời xa phi cơ. Không những thế, Chuẩn Úy NVN gồng mình
càng ôm chặt thành sắt chống cánh phi cơ hơn. Tình trạng có vẽ
khẩn trương, Trung Úy đồn trưởng xin phép Trung Tá Trung Đoàn Trưởng
dùng biện pháp mạnh để trị tội một quân nhân vô kỷ luật. Chúng
tôi ai nấy hồi hộp chờ đợi quyết định của Trung Tá NVC là người có
thẩm quyền hơn cả tại đây. Bầu không khí trở nên nặng nề, nhưng
Trung Tá NVC vẫn giữ im lặng, chừng như khó xử. Trung Úy đồn trưởng
hiểu lầm, tưởng rằng im lặng là đồng ý, nên vội chạy lại cố dùng
hết sức mạnh lôi kéo Chuẩn Úy NVN rời khỏi phi cơ. Hai bên giằng co,
rồi bổng nhiên Chuẩn Úy NVN vừa khóc lớn vừa đập đầu vào trụ
chống cánh phi cơ. * Xin cho tôi được về Huế hôm nay, nếu không, tôi
chết ngay tại đây và vợ con tôi sẽ chết theo*. Nghe vậy, tôi hết
sức xúc động. Cảnh nhớ vợ thương con khi bắt buộc phải xa vắng, vợ
con ở hậu phương, chồng cha ở nơi tiền tuyến hay tại một đồn hẻo
lảnh nào đó, tôi đã từng nếm qua. Năm 1951 tôi là đồn trưởng Phò
Trạch nằm trên quốc lộ 1, cách Huế khoảng 30 cây số về phía Bắc,
giao thông trắc trở. Chúng tôi vừa mới cưới nhau, tôi ra tiền đồn,
nhà tôi về thăm ngoại, bên kia Bến Hải. Vào dịp Noel năm đó vì nhớ
vợ, nên tôi đã uống rượu giải sầu. Tôi say túy lúy phải nằm liệt
giường suốt một tuần lể. May nhờ có Thượng sĩ nhất PVD thay tôi chỉ
huy, điều hành và trấn giữ đồn bót. Và đồng thời đánh điện về
Tiểu Đoàn báo cáo tình trạng của tôi. Tiểu Đoàn đã thành lập đoàn
xe tiếp tế bất thường và chỉ định Thiếu Úy HHĐ thay thế, để cho tôi
về phép thăm vợ. Cũng cùng năm ấy, khi tôi làm đồn trưởng đồn Hạ
Lang cách Huế 10 cây số đường chim bay, có một quân nhân vì nhớ gia
đình nhưng không thể về phép được vì giao thông cách trở và thiếu an
ninh, nên vào giờ canh gác đêm đã tự lấy súng bắn vào chân mình,
để được đưa về điều trị tại Quân Y Viện Mang Cá, Huế, hầu tạo dịp
cho gia đình vợ con đến thăm. Biết đâu hành động của Chuẩn Úy NVN
hôm nay lại tái diển, có thể còn trầm trọng hơn nữa, vì hiện đương
sự có mang súng bên hông. Tôi đang suy nghĩ
miên man, bổng thức tĩnh khi Trung Tá NVC lên tiếng yêu cầu tôi giúp
đở. Ý định của Trung Tá NVC nay đã rõ ràng, không muốn có sự không
hay xảy ra, vì hành động của Chuẩn Úy NVN có vẻ quyết liệt lắm. Chính
tôi cũng nhận thấy điều này. Tôi trình rằng không thể được, vì L-19
chưa bao giờ chở nặng 4 người, vả lại không có chỗ ngồi, hơn nữa
đường bay A Luoi lại quá ngắn, hai đầu còn có cây cối cao, cất cánh
rất nguy hiểm. L-19 chở 3 người
là chuyện thường, nhứt là mỗi khi chúng tôi đi công tác xa đơn vị,
gồm hoa tiêu, quan sát viên và thợ máy. Mỗi người chúng tôi mang
theo một va li nhỏ hành lý, riêng anh thợ máy mang theo thùng đồ nghề
nặng với hai cục chèn bánh nữa. Khi nghĩ tới số hành lý này, trong
đầu óc tôi lóe lên một tia hy vọng. Tôi tính nhẩm cân lượng số
hành lý và thùng đồ nghề cũng xấp xỉ cân lượng của Chuẩn Úy NVN,
khổ người trung bình. Vấn đề trọng lượng có thể tạm giải quyết, còn
chổ ngồi thì sao? Phía sau chỉ có một ghế, không thể ngồi 3 người
được. Ngồi ở dưới sàn giữa ghế trước và ghế sau cũng không tiện,
vì cấn chân hai người ngồi ghế sau. Tôi nghĩ rằng tôi có thể thuyết
phục được Chuẩn Úy NVN ngồi ở hộc chứa hành lý. Nay vấn đề nan
giải chính yếu là cất cánh. Đường bay A Luoi dài khoảng chưa đầy 300
mét, mặt nền bằng đất nện không mấy cứng và không bằng phẳng, hai
đầu lại có rừng già với những cây cao vút, phi cơ lại chở nặng,
chưa bao giờ tôi dám cất cánh thử với bốn người trên đường bay dài,
huống hồ là tại sân bay ngắn này, nên tôi rất ngại ngùng. Tôi suy nghĩ nát
óc và chưa có một quyết định dứt khoát. Nhưng lời nói và hành động
của Chuẩn Úy NVN chưa biết thực hư như thế nào cũng đã có một tác
dụng tâm lý đối với tôi, đánh tan sự rụt rè trong tôi. Và lời yêu
cầu của Trung Tá NVC như khuyến khích tôi thêm can đảm. Vả lại trời
cũng đã xế chiều, càng thúc đẩy tôi bằng lòng chở 4 người cùng về
Huế một lượt. Nghe vậy, ai cũng
hớn hở ra mặt, vì sự khó khăn đã được giải quyết, nhứt là Chuuẩn
Úy NVN, nhưng họ đâu có hiểu vấn đề kỷ thuật, chở nặng mất mạng
như chơi, là điều mà tôi đang hồi hộp lo âu. Vì trót đã lở hứa, tôi
đành phải thực hành. Tôi tiến lại phi cơ, Chuẩn Úy NVN nhìn tôi,
giọng nói run run * Cám ơn Đại Úy đã giứp đở tôi và vợ con tôi*. Tôi
đâu dám nhận, nên không đáp lại, vì công tác chưa chu toàn và nghĩ
thầm, biết đâu, đây là tai họa, bốn người có thể bỏ xác tại nơi
này. Tôi mở cửa phi
cơ, nhấc tấm dựa của ghế sau và mời Chuẩn Úy NVN lên trước. Có lẽ
vì quá bất ngờ và xúc động, nên Chuẩn Úy NVN bước lên phi cơ một
cách khó khăn suýt ngã, tôi phải giúp đở và chỉ chỗ ngồi ở hộc
hành lý. Và tôi dặn dò, khi phi cơ cất cánh cố ngồi cho vửng bằng
cách níu hai tay thật chặt vào thành ghế sau. Tiếp theo, tôi mời Trung
Tá NVC và Đại Úy Trưởng Phòng Ba lên phi cơ. Tôi phụ giúp buộc dây
an toàn thật chặt cho hai vị này. Xong đâu đấy, tôi
cám ơn Trung Úy đồn trưởng rồi bước lên phi cơ sau chót. Tôi mở máy
và thử máy tại chỗ, rồi di chuyển. Lúc này tinh thần tôi hết sức
căng thẳng, hồi hộp, nhịp tim tôi đập thình thịch liên hồi. Đến đầu
phi đạo, tôi thử máy một lần nữa, điều chỉnh mủi phi cơ chúi về phía
trước cho cân bằng trọng lượng, vì trọng tâm đã dồn về phía sau, nơi
ba người đang ngồi, còn một mình tôi nhẹ cân ngồi phía trước. Tôi
cũng không quên ra hết cánh cản. Tôi cất cánh hướng Bắc Nam của phi
đạo. Giây phút này hết sức quan trọng, không cho phép tôi suy nghĩ
vẫn vơ nữa. Tôi cố đè nén mọi xúc động, tập trung tất cả mọi nỗ
lực, dồn hết sức mạnh vào hai chân đang đạp thắng thật chặt. Tay
trái tống hết ga về phía trước trong lúc tay mặt ghì chặt cần lái
vào bụng. Tôi giữ động tác và vị thế này lâu chừng 15 giây đồng
hồ, đợi cho đến khi nghe tiếng máy nổ dòn và phi cơ muốn chồm tới
trước, tôi mới nhả thắng hai chân. Phi cơ bung đi một cách hung hăng
và mệt nhọc cho đến khi đuôi nhấc nhẹ, thân phi cơ thăng bằng tôi
mới vửng tâm, rồi lướt nhanh trên nền đất đỏ, cắm đầu về phía
trước, đến gần cuối phi đạo mới nhấc bổng lên một cách nhẹ nhàng
nhờ gió mạnh của rừng cây phía trước thổi lại. Tôi cám đội Ơn Trên
đã cho ngọn Gió Thần cứu chúng tôi thoát chết. Khi phi cơ lên vừa
đủ cao độ, tôi quay lại phía sau, nhìn thấy ba vị ngồi đằng sau với
nét mặt rạng rỡ. Riêng tôi vẫn còn chút lo lắng khi về Huế đáp. Sân
bay Thành Nội tuy đủ dài và rộng cho phi cơ nhẹ, nhưng hai đầu lại có
chướng ngại vật, ngay đầu phía Đông Nam có hồ sen lớn, bờ xây bằng
xi măng, phía Tây Bắc có bờ thành cao và nhứt là lầu Trung Chánh hay
Cửa Hậu nằm ngay hướng cận tiến. Bởi lo ngại như
thế, nên tôi đã đổi hướng bay về Phú Bài, cách Huế khoảng trên
mười cây số về phía Đông Nam, nơi đây có sân bay dân sự dài. Vì đã
về chiều, nên Đài Kiểm Sóat Không Lưu tại phi trường này tạm ngưng
hoạt động. Tôi định đáp tại phi trường này cho an toàn. Khi phi cơ cận
tiến, tôi cảm thấy không có triệu chứng gì khác lạ, ngoài sự phi cơ
xuống hơi nhanh một chút khi máy ở vòng quay tối thiểu, nên tôi đổi
ý, tống ga bay lên, về đáp ở sân bay Thành Nội Huế bằng an. Tôi
thở phào nhẹ nhỏm. Khi bước xuống
khỏi phi cơ, tôi thoáng thấy nét mặt của Trung Tá NVC không vui, Đại
Úy Trưởng Phòng Ba giận ra mặt, Chuẩn Úy NVN có vẻ sợ sệt. Tôi rất
ái ngại, không biết rồi đây số phận của Chuẩn Úy NVN sẽ ra sao? Có
bị biện pháp kỷ luật trừng trị hay không? Nhưng dẩu Chuẩn Úy NVN có
bị phạt chăng đi nữa, nhẹ thì giam giữ ở Quân, Trấn, nặng thì giam
giữ ở Quân Lao, hai nơi này đều ở thành phố cả, thì cũng có dịp cho
vợ con đến thăm, đúng như ý nguyện của đương sự. Nếu như còn ở A
Luoi thì biết đến bao giờ mới gặp được vợ con. Nghĩ tới điều này tôi
an tâm, cất cánh trở về Đà Nẳng với lòng hân hoan. Sau đó, suy nghĩ
lại, tôi nhận thấy hành động của tôi trong vụ này thật là ngu
ngốc, liều lĩnh. Có nhiều phương cách giải quyết, chẳng hạn như gọi
điện thoại về Phi Đoàn xin cấp thêm một phi cơ khác, vì tôi là Phi
Đoàn Trưởng, hoặc tự mình chở làm hai chuyến, hay là cương quyết từ
chối, mà lại mạo hiểm đùa với tử thần. Anh hùng gan dạ chăng? Không,
chẳng qua là tính ngông cuồng của tuổi trẻ hay là điếc không sợ
súng. Tài ba lỗi lạc ư? Cũng không, về phương diện chuyên nghiệp thì
tôi đã vi phạm trầm trọng luật lệ an ninh phi hành. Nếu xảy ra tai
nạn mà tôi còn sống thì tôi sẽ bị phạt rất nặng và cấm bay; rủi bị
thương hay chết, không những thiệt thân mà còn để khổ lụy cho vợ con
tôi nữa. Tại sao phi cơ lại cất cánh một cánh an toàn như thế? Cho
tới nay tôi vẫn tin tưởng mãnh liệt có Ơn Trên phù hộ. Qua sự việc
này, tôi học được một kinh nghiệm, là sau này mỗi khi đáp ở những
phi trường hẻo lánh, tôi xin người canh gác phi cơ cẩn thận. Câu chuyện xảy ra
cách nay đã 45 năm, nay nhớ lại thật buồn cười. Vào những năm gần
trước đây, tình hình Trung Đông sôi động, thường hay xảy ra những vụ
không tặc. Các tên cướp máy bay, giả làm hành khách, đợi khi phi cơ
đã lên trời, lấy vủ khí giấu trong người, như súng ống, lựu đạn,
chất nổ hay những vật sắt thép bén nhọ, uy hiếp phi hành đoàn và
hành khách, hầu thực hiện một mưu đồ chính trị nào đó. Phi hành đoàn
vì sinh mạng của mình và của tất cả hành khách, đành bắt buộc phải
nghe theo yêu sách của không tặc. Trường hợp của tôi trái ngược
hẳn. Phi cơ tôi đậu ở dưới đất, tặc nhân cũng ở dưới đất, không
dùng vủ khí dí vào đầu tôi hay làm nguy hại tính mạng hành khách,
chúng tôi cũng đang đứng dưới đất cả, mà chỉ tự uy hiếp tánh mạng
mình và tánh mạng vợ con mình. Tóm lại sự việc đều xảy ra dưới đất
với yêu sách không mấy chính đáng, là chỉ mong gặp được mặt vợ con,
thế mà tôi phải chấp nhận một cách nông nổi dại dột. Đúng là tôi
đã bị địa tặc.
Ngày 14 tháng 3 năm 2002. |