NGÀNH HỎA LỰCKQVN Xám Một Trong KQVN, có thể kể thuộc ngành hỏa
lực th́ rất nhiều, v́ chúng ta có rất nhiều
loại phi cơ trang bị vũ khí có thể gây thiệt
hại cho địch, dưới đất hay trên
không. Ngoài lực lượng
khu trục chiến thuật của chúng ta có lúc lên quá 300
chiếc, c̣n có trực thăng vơ trang yểm trợ hành
quân trực thăng vận, phi cơ vận tải vơ trang
mà thường biết với biệt hiệu Hỏa
Long. V́ chiến tranh tại
Việt Nam không giống chiến tranh nào khác trước
kia, nên ngành hỏa lực của KQVN có phần đa
dạng, như một sự kết hợp các Không Binh Hoa
Kỳ vào một tổ chức duy nhất là Không Quân. Cuộc chiến tranh đặc
biệt này lại xảy ra trên đất nước chúng
ta chứ không phải giữa nước chúng ta và
nước của phe địch nên vấn đề
nắm vững chủ quyền không gian chưa
được coi trọng.
Cũng v́ thế mà KQVN chỉ đóng một vai tṛ
thụ động, lệ thuộc vào sự chỉ huy
trực tiếp của lực lượng diện
địa trên khắp chiến trường. Trong suốt thời kỳ chiến tranh tại
Việt Nam 1959-1975, KQVN đóng vai tṛ chủ yếu là
yểm trợ cho lực lượng diện địa
trên lănh thổ của ḿnh.
Không có giới tuyến hay chiến tuyến! Nhưng vào năm 1964, chúng ta
đă tung một số lực lượng đánh trên
đất Bắc ngoài vĩ tuyến 17. Tuy không thể so sánh với Do
Thái khi bất thần đánh bại Không Quân các
nước Á Rập lân bang như Ai Cập, Syrie và Liban
chỉ trong ṿng sáu ngày hồi năm 1967, nhưng vượt
Bến Hải tự do oanh kích các mục tiêu quân sự
địch trên đất địch là một cuộc
hành quân riêng biệt của Không Quân chúng ta. Lẽ dĩ nhiên, v́ chưa
đủ lớn mạnh để làm việc đó, chúng
ta đă phải nhờ đến Mỹ bao cho các nguồn
yểm trợ khác như t́nh báo, kiểm báo, cứu
cấp, và nhất là phản không (counter air) khi có phi cơ
pḥng không của địch lên truy cản. Và ta chỉ đánh một đ̣n
rồi về chứ không có quy mô từ nhỏ tới
lớn hay từ điểm tới diện ǵ cả. Trong khi đó, phi cơ Hoa Kỳ
tham gia đánh Bắc được tổ chức thành
nhiều đợt tấn công trong một ngày. Trước hết là một
đoàn khu trục có nhiệm vụ đặc biệt tiêu
diệt các hệ thống ḍ t́m của địch gồm
hai hệ thống radar khác nhau VHF và UHF, các hệ thống
radar hướng dẫn truy cản (GCI=Ground Control Intercept),
các radar xạ kích hoả tiển địa/không SAM-2, và
hệ thống truyền tin chỉ huy của hệ
thống pḥng không Bắc Việt.
Một số phi cơ khác chuyên về phá rối
hệ thống vô tuyến, radar của địch. Một số khu trục cơ
khác chiếm lănh các phi trường của địch không
cho phép máy bay địch cất cánh. Và sau cùng mới tiến hành các đợt
tấn công từ nhiều phía, Thái Lan, Hạm Đội 7,
từ Guam và từ Nam Việt Nam.
Máy bay của Đồng Minh bay từng đoàn
đông và dài như một hành lang, trong các hành lang tấn
công đó có phi cơ thả bom và phi cơ hộ tống,
có phi cơ điện tử để đánh lạc
hướng bằng những decoy bắn ra từ các B-52,
có phi cơ điện tử để hướng
tuyến LASER vào các mục tiêu khó đánh và nguy hiểm
để tới gần hầu có thể sử dụng
Smart Bomb. Máy bay bay vào không
phận Bắc Việt nhiều đến độ
bảo ḥa các màn ảnh radar nếu có radar nào c̣n khả
dụng, trên đó địch chỉ thấy một
vệt sáng choang chứ không thể nào đếm
được loại hay số lượng máy bay xâm
nhập. Một AWACS (Aircraft
Warning Airborne Control System)làm Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch
trên không để điều khiển phi cơ phản
không khi cần thiết, và điều động cứu
cấp khi có phi cơ lâm nạn.
Nói sơ lược về tổ chức tấn công
ngoài lănh thổ để cho thấy tầm vóc của KQVN
ta có đủ khả năng làm việc đó một ḿnh
không. Trở về với nhiệm vụ chính là
yểm trợ hỏa lực cho chiến trường
miền Nam. Trước
hết phải nói về chiếc Skyraider A-1H. Hùng hậu về hỏa lực-
-có thể mang tối đa đến 8,000 lbs với
sức công phá dữ dội của 4 đại bác 20 mm--,
bao vùng được lâu - - tối đa 8 giờ bay
(khả năng giới hạn của tiêu thụ
dầu)nếu có đủ xăng(5 giờ rưỡi
nếu không mang b́nh xăng phụ) - -, phi cơ này có
mặt đều đều trên không phận hành quân làm cho
địch khiếp sợ và cho bạn yên ḷng. Với ba dàn trong và 12 dàn ngoài,
A-1H/G có thể mang nhiều loại vũ khí khác nhau (từ
3,000 lbs ở dàn trong, và tối đa 8 dàn ngoài có sức mang
đến 500lbs). Trong
việc sử dụng, chúng ta đă gặp phải
nhiều khó khăn như sau: không biết lúc nào cần
trang bị vũ khí ǵ, v́ khi điều động
tổng quát th́ có ǵ sẵn sàng là ta dùng để cất
cánh ngay; tiếp liệu không đáp ứng nỗi nhu
cầu từng lúc, cần bom chùm, CBU, hay bom nổ chậm
hay nổ chụp (VT fuse)th́ không có sẵn, mà thiếu sót
đó không v́ ngành tiếp vận mà v́ không ai dự đoán
được, hay không biết mà dự trù; người
ấn định mục tiêu không rơ về mục tiêu
cần đến loại vũ khí ǵ, và cũng không có
người cố vấn họ hay là họ không thèm nghe
lời cố vấn của chuyên viên, chỉ biết khu
trục đồng nghĩa với phi xuất hành quân là
đủ. Và thậm chí khi
nói đến phi xuất, họ cũng không biết
được thời gian trang bị cho một phi cơ
là bao nhiêu. Đó là thời
gian “xoay ṿng” mà người Mỹ thường gọi là
“turn around time”. Trong cuộc
“chiến tranh sáu ngày” của Do Thái năm 1967, một
chiếc oanh tạc cơ nhẹ Vautour (do Pháp chế
tạo) bay sáu phi xuất một ngày, thời gian xoay ṿng là
30 phút. Thời gian xoay ṿng trên
A-1H là 90 phút cho một phi tuần nhẹ (hai phi cơ). Và nếu ta có được máy
nâng bom (v́ A-1H/G rất cao) th́ đỡ hơn nhiều, v́
chúng ta không có mấy người được như
“Kính Voi”, một chuyên viên vũ khí khỏe mạnh. Cở bom 100lbs th́ anh chỉ
một ḿnh là đủ rồi, c̣n cở lớn hơn
mới dùng đến hai người. Đó là những yếu điểm trong hệ
thống điều hành hành quân chung của chúng ta làm chúng
ta không phát huy được tiềm năng chiến
đấu của ḿnh. Điểm kế tiếp càng quan trọng hơn
khi KQVN bắt đầu sử dụng phản lực
cơ. Trước hết
phải nói về hai loại khu trục của chúng ta là F-5
và A-37. Hai chiếc này xuất
thân từ hai chiếc máy bay huấn luyện T-38 và T-37
cải bổ lại. Mục
đích chính là người Mỹ sẽ bán được
hai loại máy bay này cho các quốc gia nhược tiểu
muốn vươn lên, để họ có thể tự hào
nắm trong tay một chiến cụ tiên tiến, nhất
là F-5 là một máy bay siêu thanh.
Trên chiến trường Việt Nam, hai chiếc này hoàn
toàn không thích hợp. Nếu
ta có được chiếc A-4E Skyhawk th́ hoàn toàn khác
hẵn, v́ A-4E có khả năng mang 4 dàn bom, mỗi dàn mang
đến 6 quả 500lbs bằng một đ̣n gánh gắn
vào dàn bom chính. A-4E cất cánh
được từ hàng không mẫu hạm nên chỉ
cần phi trường có đường bay rất
ngắn, không cần phải có dù đuôi khi đáp. Cũng v́ sự tự hào của
Không Quân Hoa Kỳ mà KQVN không thể dùng A-4E của US NAVY, và
chắc cũng có nhiều lư do khác mà US NAVY không chịu cho
KQVN sử dụng máy bay mà họ đang dùng. Trở lại hai chiếc F-5 và
A-37 của chúng ta th́ thấy rơ sức chở bom rất
kém, súng lại không bằng nhất là trên A-37 coi như không
có súng. Tốc độ
lại nhanh hơn A-1H/G nên bay cao và không thấy rơ
được mục tiêu bằng A-1H/G khi oanh kích cần
chính xác. Là phản lực
cơ nên dễ bị bắn rơi khi trúng vào nhược
điểm mà chuyên viên thường gọi là “aircraft
density”, nghĩa là tỷ lệ nhược điểm trên
khắp phi cơ cao hơn trên A-1H/G rất nhiều. Khi Phạm Phú Quốc đáp
xuống sông Saigon v́ máy bay bốc cháy, xem kỹ chiếc
A-1H đó đă lănh 72 viên đại liên 12,7 ly của dinh
độc lập, nhưng chỉ có một viên kẹt vào
“valve’ nhập xăng vào “xy lanh”, nên xăng phun ra ngoài và làm
cháy. Điều đó cho
thấy A-1H chịu đựng rất tốt. Bất cứ phản lực
cơ nào khi bị trúng đạn vào máy nén (compressor) th́
nổ tung ngay. Điểm quan
trọng kế tiếp là thời gian trên vùng. Phản lực cơ không thể
bay lâu trên vùng để trấn an bạn và làm cho
địch lo âu. Nhưng
phản lực cơ có thể đến trên vùng nhanh chóng. Nói cách khác, hoặc là làm như
Mỹ, hoặc là làm theo Pháp, theo ai cũng nên biết
tại sao. Nếu làm theo
Mỹ th́ chỉ tính làm sao số phi xuất của một
đơn vị một ngày được ấn
định theo khả năng của đơn vị, và
cứ theo chương lịch hằng ngày mà phóng lên quỷ
đạo, không cần biết đâu là mục tiêu. Muốn sản xuất tối
đa phi xuất trong ngày th́ người Mỹ áp dụng
“smooth flow operation”. Ví dụ
mỗi 30 phút cho lên một phi tuần nhẹ. Tại sao 30 phút như ví dụ
đă nêu, v́ họ căn cứ vào thời gian xoay ṿng. Nếu ta có 10 chiếc khả
dụng trong ngày mà cho lên một lần 10 chiếc, xong sau
khi 10 chiếc đó đáp lại, ta cho xăng dầu và
bom đạn trang bị lại th́ tốn nhiều thời
gian v́ các giới hạn nhân vật lực của từng
đơn vị như xe bồn, xe nâng bom chẳng
hạn, và nhất là chuyên viên trực ngày hôm đó. Trái lại, nếu mỗi
lần trang bị lại chỉ có hai phi cơ, xong rồi
cho lên, và nối tiếp trang bị lại cho hai phi cơ
khác th́ sẽ không trở ngại về nhân vật lực
của đơn vị. Lúc
nào ta cũng có được máy bay sẵn sàng trên không
để ta điều vào mục tiêu tức thời nào ta
muốn. Sau khi thi hành phi
vụ, máy bay tự động trang bị lại, và
cứ như thế từ đầu cho đến
cuối ngày. Làm cách này sẽ
đạt được số lượng phi xuất
tối đa, mà đối với Mỹ là một thành tích
đo lường khả năng một đơn
vị. Đối với
cơ quan điều kiểm th́ mệt nhọc hơn
nhiều, v́ bất cứ lúc nào ḿnh cũng phải biết
ḿnh cần yểm trợ hỏa lực ở đâu. Nếu không có mục tiêu yểm
trợ quân bạn th́ phải sẵn sàng mục tiêu “oanh
kích tự do” hay “quấy rối’ trên vùng hậu cứ
của địch(H&I=Harassment&Interdiction) để
giải tỏa bom đạn trước khi đáp. Áp
dụng mô thức của Mỹ rất tốn kém, nhưng
đáp ứng được nhu cầu sẵn sàng chiến
đấu (readiness). Theo mô thức
của Pháp, hay đúng hơn là cách quản lư tài nguyên
tiết kiệm của thời xưa, th́ chúng ta phải
đặt túc trực dưới đất để
chờ khi hữu sự là cho cất cánh ngay. Cũng giống như mô thức
trên, phi cơ xuất trận không khi nào có trang bị thích
hợp cho chiến trường.
Nhiều khi đơn vị trang bị tổng quát
sao cho tiện việc của đơn vị. Chỉ có khi nào biết rơ nhu
cầu mục tiêu mới có đầy đủ lệnh
trang bị thích hợp. Bù lại với thời gian trên vùng rất ngắn,
F-5 và A-37 đều có tầm hoạt động xa căn cứ xuất phát hơn,
nhờ tốc độ cao hơn A-1H/G. Do đó, nếu khéo sử dụng
th́ bất cứ lúc nào, ta cũng có thể tập trung một
hỏa lực yểm trợ hùng hậu. Ví dụ muốn tấn công một
mục tiêu ở trong Vùng 3 Chiến Thuật, ta có thể điều
động máy bay từ Phan Rang, B́nh Thủy và Biên Ḥa. Vấn đề pḥng không của địch gia
tăng trong thời gian sau cùng gây trở ngại rất
lớn cho các loại máy bay chậm chạp như A-1H/G,
nhất là súng pḥng không nặng 37 ly và SA-7. Để dành lại không gian,
phải tiêu diệt các ổ
súng pḥng không 37 ly. Điều
này có thể được thực hiện bằng
nhiều cách khác nhau. Ta có
thể đưa các toán của Lực Lượng
Đặc Biệt đột kích phá hủy ṇng súng và tiêu
diệt nhân viên chuyên môn sử dụng súng v́ đây là loại
súng cộng đồng. Có thể đặt pháo binh bất thần tập trung
hỏa lực vào các ổ súng pḥng không địch,
chắc chắn cũng có pháo binh địch yểm
trợ bảo vệ. KQVN có
thể dùng các loại bom như Napalm thả ngay trên súng
để lấy sức nóng làm cong ṇng súng. Có thể thả bom chùm
để tiêu diệt nhân viên chuyên môn sử dụng súng. Những phi vụ như vậy
đều rất nguy hiễm và khó khăn, v́ phải bay
chính xác ở cao độ thấp và giữ cao độ
thấp để rời vùng mục tiêu. Do đó, tin tức t́nh báo
phải chính xác, tốt nhất là có không ảnh và hành
động kịp lúc trước khi súng được di
chuyển nơi khác. Có
rất nhiều loại CBU có dù cho ta thả ở cao
độ thấp để bom chỉ nổ sau khi máy bay
bay ra khỏi tầm mănh bom.
Dùng cao độ thấp mới có thể tạo
được bất ngờ, v́ các súng pḥng không
đều có radar yểm trợ tin tức về hoạt
động của ta trên không.
Bay thấp c̣n hóa giải
được SA-7 thường yểm trợ hổ
tương cho súng 37 ly, v́ bay ngang quá nhanh và thấp với
nhiều trục khác nhau th́ người xạ thủ không
biết đâu mà chận trước đường bay mà
bắn. SA-7 là hỏa tiển
tầm nhiệt nên chỉ bắn ở 6 giờ của
ta. Giống như hỏa
tiển không/không AIM-9 mà ta dùng trên F-5E, hay chính xác hơn là
Red Eye mà Lục Quân Mỹ dùng, SA-7 không thể quẹo
gắt trên 3G. V́ vậy, khi
rời vùng mục tiêu, vẫn giữ cao độ thấp
và làm nhiều ṿng quẹo gắt ít nhất 3G.... Trong phi tuần có thể giúp
đỡ quan sát cho nhau để phản ứng thích
hợp. Nếu ta tấn công
từ cao độ cao, thứ nhất ta không gây
được yếu tố bất ngờ. Thứ đến, ta phải
xuyên qua một rào pḥng không bắn chận (tir de barage) mà
ngoài Bắc đă hạ được nhiều nhất
phi cơ Mỹ nhờ súng chứ không phải nhờ
thứ khác như SA-2 hay MIG-21.
Thứ ba là không tấn công chính xác vào mục tiêu
như khi bay thấp. Đó là
lợi điểm của phi cơ bay nhanh, nhưng cũng
là kỹ thuật phải tôi luyện cho thuần thục,
v́ bay thấp rất khó điều hành. Tại Trường Khu Trục ở Maroc, người
ta tập bay hợp đoàn trên các loại máy bay T-33 và
Vampire V , bay thấp
đến độ chim c̣ vụt bay lên từ
dưới đất đập vào cánh phi cơ thịt
nát xương tan đỏ khắp cánh. Khó hơn hết là những
hợp đ̣an bốn chiếc theo đội h́nh diamond
quẹo gắt 3G, nếu lỡ bị rớt ra ngoài th́ vô
phương tập họp lại được. Điều đó cho thấy không
có cái ǵ không luyện mà thành, và cũng chứng minh rằng
một hỏa tiển SA-7 sau khi được phóng đi tăng
nhanh tốc độ không
thể nào tập họp với ta được nếu
ta quẹo gắt với 3G. Ngành hỏa lực của chúng ta đă có lúc thay
thế B-52 trong các phi vụ trải thảm bom theo sự
hướng dẫn của hệ thống BOBS (Beacon Only
Bombing System). Có điều hệ
thống này kết hộp hoạt động của Range
Beacon nên không có độ chính xác đáng tin cậy. Biết đâu đánh trật mà
địch có t́nh báo để chạy ra khỏi vùng nguy
hiểm lại bị ta đánh trúng. Range là một loại beacon cho ta các trục
từ beacon tỏa ra ngoài.
Nếu dùng radio range làm phương tiện homing, th́
ta bay từ vùng rộng đến vùng hẹp và chính xác
dần đến beacon. Càng
xa beacon chừng nào, độ tỏa ra của trục liên
hệ càng lớn. Nói cách khác, trục đó quá rộng khi
đă quá xa beacon, và chỉ chính xác hơn khi gần
beacon. Những điểm
cắt nhau của các trục ấy cho ta một
điểm nào đó trên tọa độ, nhưng v́
sống tỏa ra nên chổ hai trục cắt nhau là một
vệt dài thay v́ là một điểm. Mỹ cũng đă thí nghiệm dùng hệ
thống Loran để thả bom.
Nhớ có kỳ ngay sân bay Đà Nẵng, kho xăng
bị nổ tung. Ai cũng
ghi thành thích cho đặc công Việt Cộng, ai ngờ
đó là A-6 của USNAVY trắc nghiệm hệ thống
Loran, lấy các điểm giao của nhiều Hyberbol
từ xa chuyển đến. Hệ thống Loran có cái
lợi là beacon Loran dùng HF nên phát đi rất xa. Nhưng chính xác th́ như các
bạn thấy, v́ họ phải thử trong t́nh trang
thời tiết xấu nên không thấy ǵ dưới
đất mới thả bom như vậy, chứ nếu
hoa tiêu đă thấy th́ tất nhiên không dại ǵ mà
thả. Đó là nói sống điện tử rất trung
thực đối với địa dư đồi núi
xung quanh vùng. C̣n nếu
sống bị dội cong hay méo mó th́ chỉ có Trời
biết mà thôi. V́ vậy, dùng
BOBS chỉ là giai đoạn thí nghiệm. Điều mà người
viết bài này thích nhất là có sự điều khiển
ngay dưới đất gần mục tiêu lớn cở
cấp trung đoàn hay sư đoàn. Lực Lượng Đặc Biệt đă
nhiều lần kết hợp hoạt động của
họ với Không Quân chúng ta.
V́ nhiệm vụ, họ phải theo sát các đại
đơn vị địch. Các toán LLDB này chỉ cần
mang theo một máy phát sống UHF mà ta biết tầng
số, và theo qui ước nào đó, như họ chỉ
ở một cây số phía Nam mục tiêu, ta có thể dùng
máy phát sống nhẹ nhàng đó để nhắm
hướng bay đến mục tiêu ở cao độ
thấp và tấn công bất thần. Nếu họ
phối hợp thường xuyên được với
ngành hỏa lực KQVN th́ họ có thể hướng
dẫn chính xác cho máy bay hơn là qua hệ thống
điều kiểm chiến thuật để lộ rơ
mục tiêu cho gián điệp. Trong các cuộc hành quân thông thường yểm trợ
hỏa lực, phải nói thành công hay thất bại đều
nhờ một phần lớn nơi sự hướng dẫn
khéo léo, nhanh chóng và chính xác của các phi cơ O-1A, O-2, U-17A
trong nhiệm vụ điều không tiền tuyến. Từ sự phối hợp chặt
chẽ với pháo binh trong việc tiền kích dọn băi đáp
cho trực thăng đổ bộ cho đến khi đụng
trân với địch, từ sự chọn lựa trục
đánh thích hợp để không nguy hiểm cho quân bạn
c̣n phải chọn thuận gió cho khu trục cơ đạt
độ chính xác cao, vai tṛ của sĩ quan điều không
tiền tuyến là một vai tṛ phức tạp, đ̣i hỏi
nhiều kinh nghiệm chiến trường và dầy công
tu luyện. Ngoài ra, SQĐKTT là
giới chức thẩm quyền xin không trợ hỏa lực
nhanh chóng khi cần, chuyển thẳng từ cánh quân đang
đụng trận đến cơ quan thẩm quyền
cao nhất là Trung Tâm Hành Quân Không Trợ thay v́ phải xuyên
qua hệ thống đến tiểu đoàn, trung đoàn,
sư đoàn rồi mới đến quân đoàn liên hệ
mới được cứu xét chấp thuận. Theo kế hoạch phối trí sau
cùng các toán Sĩ Quan Liên Lạc Không Quân/Sĩ Quan Điều
Không Tiền Tuyến đều được đặt
cạnh các tiểu khu trong mỗi vùng chiến thuật. Nhờ vậy, đâu đâu cũng
đều có phương tiện máy bay quan sát lên vùng hành quân,
và từ đó hướng dẫn khu trục cơ khi cần. Chính những người bạn
này am hiểu t́nh h́nh địa phương, có thể nói là
ở đâu có một cây chuối vừa mọc lên bất
thần, họ cũng biết được, và nhờ đó
đóng góp trực tiếp vào hiểu quả của ngành hỏa
lực chúng ta. Ngành hỏa lực KQVN c̣n có liên quan đến
trực thăng vơ trang và vận tải vơ trang mới
đầy đủ được. Tiếc rằng những ngành ấy không trong ṿng
hiểu biết của chúng tôi, nên nhờ các bạn bổ
túc cho. Những điều
đă viết ở trên chỉ nhằm mục đích
gợi lại một hành tŕnh gian khổ của bao nhiêu
người từng đi mây về gió, những
người đă hy sinh cho tổ quốc thân yêu và
những người may mắn sống c̣n. Xám Một |