KHÓA SINH TRƯỜNG PHÁP
Khóa sinh tại các trường Không Quân Pháp rất nhiều, thật khó thu thập đủ tài liệu để trình bày cho chính xác. Ở đây, chúng tôi có một ít tài liệu về các khóa tại Marakech, tại Salon, và một khóa rất đặc biệt trong đó có Phạm Phú Quốc. Nếu các bạn có tài liệu đóng góp thêm về các trường khác, chúng tôi sẽ bổ túc thêm. Cám ơn trước. Tarin65.
TRƯỜNG MARAKECH
Ly Tri Tình Ôn Văn Hiển |
|||
Phạm Ngọc Sang Huỳnh Minh Bon Huỳnh Bá Tính Đinh Văn Chung Phan Phụng Tiên Võ Công Thống |
Nguyễn Hữu Chẩn Đỗ Cao Đẳng Nguyễn Ngọc Thang Nguyễn Gia Thanh |
||
Nguyễn Cao Kỳ Trần Văn Hổ |
Hạ Hầu Sinh Trần Văn Thanh Trần Trung Đoàn Lê Công Chấn Nguyễn Mai Lam Huỳnh Văn Hiến Lưu Kim Cương Bùi Hữu Thế Nguyễn Thanh Lịch Trịnh Tuy Gia Lê Chí Nguyện Nguyễn Đình Thanh |
||
Chu Trọng Để Lâm Văn Phiếu |
Nguyễn Văn Bá Nguyễn Thế Thân Ong Lợi Hồng Trần Văn Nhứt Ôn Văn Tài Nguyễn Hồng Tuyền Phạm Công Minh Võ Thành Tâm Hồ Văn Tuấn Kiệt Nguyễn Hữu Trí Noi Văn Quang |
||
Nguyễn Xuân Vinh Đỗ Xuân Khanh Trần Văn Hội Lê Ngọc Tuy Nguyễn Thiện Kiều Đinh Tấn Chi Nguyễn Anh Tuấn Châu Quan Thanh Nguyễn Đình Tuân |
|||
Ngoài các khóa kể trong tài liệu này, còn một số khóa khác có người Việt Nam học, như Nguyễn Ngọc Loan từ trường Salon sang, và Nguyễn Thanh Tòng cũng đã được thụ huấn tại Marakech trước khi sang Mecknès. Cũng có một khóa đặc biệt khác dạy về khu trục trên T-6 tại Marakech trước khi gửi sang Khouribga để bay trên F-6F Hellcat, như các anh Huỳnh Hữu Hiền, Nguyễn Kim Khánh, Dương Thiệu Hùng,Nguyễn Thông, Nguyễn Hữu Chẩn, Nguyễn Quan Huy, Nguyễn Ngọc Biện, Võ Văn Hội, và Hồ Xuân Đệ. Khóa này về nước bổ sung cho Phi Đoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát, nơi đó sẵn có 13 người đã tốt nghiệp tại Pháp theo một chương trình đặc biệt.
Đó là khóa tốt nghiệp trên khu trục cơ của Pháp MS-475, gồm các anh sau đây: Phạm Phú Quốc, Nguyễn Thế Long, Lê Ngọc Duệ, Võ Văn Sĩ, Nguyễn Tấn Sĩ, Mặc Kỉnh Dung, Trương Đăng Lượng, Vũ Khắc Huề, Nguyễn Hữu Bách, Nguyễn Đình Nam, Thái Văn Dương,Huỳnh Hữu Bạc,và anh Võ Văn Xuân. Trong số này, nay chỉ còn anh Nguyễn Hữu Bách, anh Nguyễn Đình Nam, anh Thái Văn Dương, và anh Trương Đăng Lượng.
Trường Võ Bị Không Quân Pháp/Salon
Lê Trung Trực |
|||
Nguyễn Quang Côn Lê Văn Khương |
|||
Nguyễn Ngọc Loan Lê Đình Cao Nguyễn Văn Ngọc Khóa Cơ Khí: Đặng Đình Linh Trần Đỗ Cung Khóa Điện Tử: Cao Thông Minh |
Nguyễn Xuân Vinh Hà Xuân Vịnh Trịnh Hoành Mô Vĩnh Đạt Lưu Văn Đức Cung Thúc Cần Nguyễn Quang Tri Khóa Cơ Khí: Từ Văn Bê Nguyễn Quang Diệm Nguyễn Văn Tư Đặng Vũ Hùng Khóa Điện Tử: Nguyễn Thượng Hành Trần Ngọc Đóa Bùi Thanh Dương |
||
Phạm Long Sửu Từ Bộ Cam Đặng Hữu Hiệp Nguyễn Mạnh Bổng Nguyễn Khắc Ngọc Vũ Thượng Văn Trần Văn Minh |
Trần Duy Kỷ Nguyễn Đức Khánh Trương Như Hoàng Khóa Cơ Khí: Nguyễn Bình Trứ Dương Xuân Nhơn Trương Trọng Công Ngô Khắc Thuật Nguyễn Văn Trung Nguyễn Cao Nguyên Khóa Diện Tử: Võ Quang Tâm Nguyễn Minh Tiên Lê Anh Dũng Tạ Minh Đức |
||
Châu Hữu Lộc |
Phạm Quốc Anh Mạc Hữu Lộc Mạc Mạnh Cầu Tô Minh Chánh Phạm Kim Lân Khóa Cơ Khí: Bồ Đại Kỳ Trần Đình Hòa Đoàn Minh Trần Thú Nguyễn Dương Đào Kim Quang Trần Công Hiệp Nguyễn Tú Hoàng Đức Phương Lưu Văn Thăng Khóa Điện Tử: Tôn Thất Đàm Lê Vĩnh Hòa Nguyễn Phước Thế Vũ Viết Thượng |
||
Các khóa không phi hành của trường VBKQP luôn luôn khai giảng vào đầu tháng 10, và đúng hai năm, tất cả khóa sinh cùng tốt nghiệp. Các khóa sinh Việt Nam làm thủ tục về nước.
Các khóa phi hành của Trường VBKQP thường kéo dài hay rút ngắn tùy trường hợp:
1-Trong khóa 1953-55, có ba khóa sinh là Trung Úy Lê Đình Cao, SVSQ Nguyễn Xuân Vinh và SVSQ Hà Xuân Vịnh chỉ theo học có năm đầu (1953-54), Vì những người nầy đã bay theo chương trình phi huấn của Trường Marrakech trước khi sang trường VBKQP nên họ cần sang Avord sớm để bay theo chương trình huấn luyện hai động cơ, và họ phải về nước trước một thời hạn nào đó theo hợp đồng mà Pháp đã ký về huấn luyện cho Việt Nam
.2-Trung Úy Nguyễn Ngọc Loan của Khóa 1953-55 cũng rời khóa sớm để sang Marrakech học lái căn bản (pilotage elementaire) trong năm thứ nhì vì ông đã có cấp bậc sĩ quan rồi. Trung Úy Nguyễn Văn Ngọc, SVSQ Cung Thúc Cần bị loại về lái trong giai đoạn vỡ lòng, nên được chọn theo học khóa "Kiểm Soát Không Chiến" tại Trung Tâm Huấn Luyện Điều Kiểm Không Chiến(CICOA=Centre d'Instruction de contrôle d'operation Aerienne)để sau nầy phục vụ trong lãnh vực điều kiểm chiến thuật tại các cơ quan như Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân hay các Trung Tâm Hành Quân Không Trợ. Hai SVSQ Trịnh Hoành Mô và Vĩnh Đạt cũng bị loại về bay vỡ lòng nên được chọn theo học khóa Điều Hành Viên, Mô tại trường VBKQP, còn Đạt thì sang Avord để học. Sau khi về nước, Mô và Đạt đều được bổ sung cho Liên Phi Đoàn Vận Tải
.Các khóa sinh phi hành của khóa 1954-56 được chia làm hai, một số được chuyển sang học khu trục tại Trường Khu Trục/Mecknès như các anh: Tr/ÚyPhạm Long Sửu, Tr/Úy Vũ Thượng Văn, Tr/Úy Đặng Hữu Hiệp, Th/Úy Trần Duy Kỷ, C/Úy Nguyễn Đức Khánh. Trong khi đó, một số khác được chuyển sang Avord để học lái phi cơ nhiều động cơ, như các anh: Tr/Úy Từ Bộ Cam, Tr/Úy Nguyễn Khắc Ngọc, Tr/Úy Nguyễn Mạnh Bổng, Th/Úy Trương Như Hoàng. Tr/Úy Trần Văn Minh bị loại về bay, không rõ giai đoạn nào mà đã sang ngành Không Lưu Khí Tượng.
Các khóa sinh khóa 1955-57 đều được chuyển sang Avord sau khi đã bay căn bản tại Trường VBKQP.
Ngày về nước của từng khóa sinh còn tùy thuộc họ xong khóa học như thế nào. Có người kém sức khỏe phải tụt khóa. Có khi chính phủ Việt Nam yêu cầu cho huấn luyện bổ túc, như khóa huấn luyện trên F-6F Hellcat tại trường dạy lái Hải Quân Pháp Khouribga sau khi tốt nghiệp bằng lái khu trục tại Mecknes. Nói chung, các khóa sinh chỉ tốt nghiệp với bàng lái hoặc hai động cơ, hoặc khu trục. Khác với các trường Mỹ, khóa sinh tốt nghiệp sau khi được huấn luyện trên phi cơ T-38 cho các khóa sinh Không Quân Mỹ. Về đơn vị, họ sẽ lái khu trục hoặc vận tải hay oanh tạc, công tác huấn luyện trên phi cơ chiến đấu thuộc trách nhiệm của đơn vị tác chiến.
Tarin65
Home Page