PHI ĐOÀN QUAN SÁT
Nguyễn Đức Ḥa
Bài này trích trong Bản Tin Không Quân của Hội Ái
Hữu Không Quân Trung Cali tháng 4 năm 2002.
(Lời người viết: Anh Vơ Ư đang
chuẩn bị một cuộc họp mặt của ngành
QUAN SÁT, trong một buổi điện đàm với tôi,
tôi có thể góp chút ít tài liệu để anh sửa
soạn cho kỳ họp mặt.
Tôi viết ra đây để tặng anh Vơ Ư và
để các bạn Không Quân khác muốn biết qua về
Quân Sử K.Q.)
Năm 1951, một văn pḥng nhỏ lo việc
thành lập KHÔNG QUÂN VIỆT NAM, do Lt Col KQ. Pháp tên Bles
điều khiển. Việc
trước tiên là thành lập một Trung Tâm Huấn Luyện
Không Quân (Centre d’Instruction Áerien, gọi tắt là CIA) tại
Nha Trang. Thiếu Tá Chaussen
chỉ huy trưởng, Thiếu Tá Dupuy coi Trường
Kỹ Thuật, Trung Úy Fatio coi Trường Phi Hành.
Cuối năm 1951, Trường KQ mặc dầu
chưa hoàn tất, nhưng tạm đủ cơ sở
để huấn luyện 2 Khóa Phi Công, Quan Sát va Kỹ
Thuật. Huấn luyện
ngay trên phi cơ quan sát Morane Saulnier 500, khóa 1 và khóa 2
cách nhau 3 tháng, để thành lập 2 Phi Đoàn Quan Sát và
một Biệt Đội Quan Sát tại Bắc Việt
(Phi Trường Bạch Mai tại Hà Nội).
Vào khoảng tháng 3 năm 1952, Trung Úy NGUYỄN NGỌC OÁNH
hướng dẫn các khóa sinh tốt nghiệp khóa 1
đến 21 GAOA* tại Tân Sơn Nhứt để
tiếp nhận Phi Đoàn này và đặt tên là PHI
ĐOÀN 1 QUAN SÁT. Trung Úy OÁNH
là vị chỉ huy trưởng PĐQS đầu tiên
của KQVN, sau này đổi lại là PHI ĐOÀN 110. (Sau này
là Chuẩn Tướng Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ
Huấn Luyện Không Quân).
Vào khoảng tháng 7 năm 1952, Trung Úy Vơ Dinh hướng
dẫn khóa sinh tốt nghiệp khóa 2 đến 22è GAOA*
tại Nha Trang để tiếp nhận Phi Đoàn này, sau
này đặt tên là PHI ĐOÀN 2 QUAN SÁT và Trung Úy Vơ Dinh
là chỉ huy trưởng phi đoàn này, sau này đổi
tên là PHI ĐOÀN 112.
Một BIỆT ĐỘI QUAN SÁT do Thiếu
Úy Vũ Văn Ước đưa một toán đến
23è GAOA*ở Phi Trường Bạch Mai, cách Hà Nội 5 cây
số (Bắc Việt).
Với nhiệm vụ YỂM TRỢ HÀNH QUÂN cho các
tiểu đoàn khinh binh Việt Nam lúc bấy giờ
phụ trách vùng Nam Định và đồng bằng sông
Hồng Hà, và Thiếu Tướng NGUYỄN VĂN VẬN,
Tư Lệnh Quân Khu 3 dùng phi cơ đi thị sát mặt
trận.
(Xin xem h́nh: Đây là Phi Đoàn 2 Quan Sát. Phi Đoàn này có nhiều sĩ
quan mang cấp tướng
nhiều nhất; nhận thấy:
-Thiếu Úy Trần Văn Minh[1] sau này là Trung
Tướng Tư Lệnh Không Quân.
-Thiếu Úy Vơ Xuân Lành (không có trong h́nh) là Thiếu
Tướng Tư Lệnh Phó.
-Trung Úy Vơ Dinh [2] là Chuẩn Tướng Tham Mưu
Trưởng.
-Thiếu Úy Nguyễn Văn Lượng[3] là
Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Không Quân.
(Ghi chú thêm, một vị Chỉ Huy Trưởng
Phi Đoàn kế vị là Đại Úy Nguyễn Hữu
Tần, là Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn
4 Không Quân. Trong h́nh c̣n có
Thiếu Úy Nguyễn Khắc Ngọc[4] sau này là Đại
Tá Tham Mư Phó Huấn Luyện).
Tôi là thành phần của Phi Đoàn 2 Quan Sát
với chức vụ Quyền Sĩ Quan Kỹ Thuật
tiếp nhận phi cơ và hồ sơ cùng tài liệu
với Lt Nantillet, Officier Adjoint Technique(lúc bấy giờ
chưa có sĩ quan kỹ thuật nên tôi tạm
quyền). Ở phi đoàn này
được 3 tháng, tôi được lệnh thuyên
chuyển đi Biệt Đội Đặc Biệt
dưới quyền chỉ huy của Thiếu Úy Vũ
Văn Ước (sau này là Đại Tá Chỉ Huy
Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân).
Đến tháng 7 năm 1954, theo Thỏa
Ước Genève chia đôi đất nước, cả
Biệt Đội phải trở về trong Nam, tôi c̣n
phải ở lại để phụ trách di cư cho gia
đ́nh KQ đến ngày chót 20 tháng 7 năm 1954, lúc đó
Việt Cộng đă xuất hiện tại Hà Nội. Bọn chúng dụ dỗ và đe
dọa tôi phải ở lại với chúng. Để cho
được an toàn, tôi phải vào ở trong trại
của KQ Pháp tại Ngọc Hà.
Hết hạn, tôi về tŕnh diện “Département
Air” ở Saigon và tôi được lệnh trở về
lại PĐ2QS ở Nha Trang và được cắt
cử đi Biệt Đội ở Sóc Trăng với
Trung Úy Vơ Xuân Lành là Biệt Đội Trưởng. (Ghi chú:
trong h́nh chụp không có Tr/Úy Vơ Xuân Lành (lúc đó đi
biệt đội) và tôi (h́nh chụp sau khi tôi
được thuyên chuyển đi Bắc Việt).
Tôi đă nói đến cấp bậc của các
vị sĩ quan trong bài là cấp bậc vào thời đó,
c̣n cấp bậc của tôi là Trung Sĩ. V́ sự hiểu biết của
tôi rất giới hạn, vậy quí vị nào muốn
cần biết rơ hơn, xin tham khảo với Niên
Trưởng Vũ Văn Ước (Sĩ quan phi công
đầu tiên) và Niên Trưởng Phùng Văn Chiêu (Sĩ
quan quan sát viên đầu tiên của KQ).
V́ nhu cầu chiến trường, cần
phải có ngay mấy Phi Đoàn Quan Sát, nên phải huấn
luyện tạm thời tại TTHLKQ/Nha Trang, sau này,
những KQ này đều được cử đi
huấn luyện tu nghiệp hoặc bổ túc hoặc
chuyển ngành tại các căn cứ huấn luyện
của Không Quân Pháp và Mỹ, để thích ứng với
sự tối tân hóa KQ.
Nói tóm lại: Ngành Quan Sát đă được
thành lập đầu tiên cho KHÔNG LỰC VIỆT NAM
CỘNG H̉A.
Cước Chú:
*Theo tác giả GAOA là chữ tắt Pháp ngữ có
nghĩa là Liên Đoàn Quan Sát và Hướng Dẫn Pháo Binh
(Groupe Áerien d’Observation et d’Artillerie).
Vào thời đó, các sĩ quan và Hạ Sĩ Quan Không
Quân Pháp chỉ lo về lái và bảo tŕ phi cơ. Quan sát viên toàn là sĩ quan pháo binh. Cụ thể là Thiếu Úy Trần
Văn Minh gia nhập Không Quân sau này nhờ đă được
biệt phái sang đơn vị quan sát của Không Quân để
hướng dẫn pháo binh, v́ ông xuất thân trường
pháo binh. Sau khi đơn vị
quan sát được chuyển giao cho Không Quân Việt Nam
th́ có tên là GAOAT(Groupe Áerien d’Observation et d’Accompagnement de Troupes),
có nghĩa là Liên Đoàn Quan Sát và Yểm Trợ Hành Quân.
**Chú thích của trang chủ:
Vào năm 1965, chỉ số quan sát viên đă gặp
nguy cơ bị hủy bỏ.
V́ lúc đó, Hệ Thống Điều Kiểm Chiến
Thuật được mở mang. Không Quân Việt Nam, theo khuyến cáo của Phái Bộ
Cố Vấn, đă phải đặt các Toán Sĩ Quan Liên
Lạc Điều Không xuống đến cấp Tiểu
Đoàn Bộ Binh, với mục đích tăng cường
hệ thống chuyển đơn xin không trợ khẩn cấp
thẳng từ cấp Tiểu Đoàn lên đến cấp
Quân Đoàn, nơi có thẩm quyền cứu xét và chấp thuận
gắp rút các đơn xin không trợ nhờ có Trung Tâm Hành
Quân Không Trợ nằm cạnh Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn. Về phía KQVN, chúng tôi thấy rằng
ngành quan sát là ngành dễ đào tạo nhanh chóng và có thể
thực hiện ngay tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân
ở Nha Trang. Do đó, Bản
Cấp Số quan sát viên trong KQVN đă nâng cao v́ nhu cầu này,
nghĩa là tổng số quan sát viên không tùy thuộc vào số
lượng phi cơ của các phi đoàn quan sát. KQVN cũng đă tranh đấu chỉ
phối trí theo lănh thổ, nghĩa là đặt các toán SQLL/ĐK
cạnh Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu, thay v́ đặt xuống
đến cấp Tiểu Đoàn. Vào lúc bấy giờ, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH
cho rằng KQVN không muốn lội bộ như KQ Hoa Kỳ.
Trên thực tế th́ vai tṛ chiến
thuật của các Tiểu Đoàn Bộ Binh QLVNCH không giống
như các đơn vị bộ binh Mỹ. Nhiệm vụ chính của QLVNCH là
bảo vệ những vùng trù phú, đông dân cư, trong lúc đơn
vị Hoa Kỳ có nhiệm vụ chính yếu là t́m kiếm
và tiêu diệt các đơn vị chính quy của CS, đặc
biệt là các đơn vị NVA (North Vietnam Army) từ Bắc
xâm nhập vào. Do sự phân nhiệm
tổng quát như vậy nên sự phối trí các toán SQLL/ĐK
theo tổ chức lănh thổ hợp lư hơn về sử
dụng cũng như về tiết kiệm quân số. Điều khó khăn gặp phải
là, theo dụng ư của Mỹ, các máy vô tuyến yểm trợ
cho chương tŕnh này sẽ được sử dụng
chung. Nếu Mỹ phối trí
xuống tiểu đoàn, c̣n ta th́ phối trí xuống tiểu
khu th́ sẽ có nơi có toán KQVN mà lại không có toán Mỹ. Nhưng rồi sự việc cũng
đă được giải quyết dung ḥa. Trong những vùng đông dân cư,
QLVNCH đóng vai chính nên các toán SQLL/ĐK của Mỹ sẽ
đóng tại tiểu khu. Trong
vùng hành quân Search & Destroy như vùng Chiến Khu D và Dương
Minh Châu, hay trong vùng cao nguyên, th́ các tiểu đoàn bộ binh
Mỹ đều có toán SQLL/ĐK Mỹ bên cạnh. Sau này, khi quân Mỹ rút đi th́ số
máy truyền tin giao cho KQVN đă bị hỏng nhiều.
Xin mở thêm một dấu ngoặc ở đây
để giải thích về Hệ Thống Xin Không Trợ
Khẩn Cấp(Mỹ gọi là Emergency Air Request System). Các đơn xin không trợ thường
được chuyển từ cấp tiểu đoàn lên trung
đoàn, rồi lên sư đoàn để chấp thuận
và chuyển tiếp lên quân đoàn để phối hợp
chấp thuận và ban hành kế hoạch không trợ cho ngày
hôm sau. Khi khẩn cấp th́ các
đơn xin không trợ chuyển theo hệ thống truyền
tin pháo binh, cũng từ cấp thấp nhất lên đến
cấp quân đoàn để cứu xét. Một mặt, hệ thống truyền
tin pháo binh c̣n là hệ thống dự pḥng (back up)cho hệ thống
chỉ huy chung(command line), nghĩa là đă quá bận bịu
rồi. Mặt khác, thông qua hệ
thống này, các cấp chỉ huy trung gian như trung đoàn
và sư đoàn đều phải cho ư kiến thuận hay
không trước khi chuyển đơn, nên ngại sẽ quá
chậm trễ. Trong khi đó, hệ thống không yểm khẩn
cấp theo máy giai tần đơn (SSB=single side band)chuyển
đơn xin thẳng từ tiểu đoàn lên quân đoàn,
trong khi đó, ở cấp trung đoàn và sư đoàn chỉ
kiểm thính, và nếu im không can thiệp vào th́ coi như chấp
thuận đơn. Do đó, quân
đoàn có thể nhanh chóng giải quyết.
Riêng ngành quan sát viên th́ Phái Bộ Cố Vấn cho
rằng, USAF chỉ cần một hoa tiêu phụ trách, tại
sao KQVN lại phải có thêm một quan sát viên ngồi sau, và
họ đề nghị BTTM/QLVNCH bỏ chỉ số quan sát
viên trong KQVN để tiết kiệm quân số. BTTM/QLVNCH đă tham khảo KQVN nên đă
không chấp thuận đề nghị này v́ nhu cầu chiến
trường. Nếu lúc đó
mà bỏ chỉ số quan sát viên th́ phải có khối người
phải đi học một ngành phi hành khác để duy tŕ
hưởng lương bay, ưu tiên là phi công quan sát, hoặc
phải chuyển sang ngành dưới đất th́ cũng
rất phiền khi tuổi đă cao.